Ngụy Thừa vẫn như trước, ngoái đầu nhìn về phía ngôi nhà lớn duy nhất trong thôn có ngói đen. Môn hộ đóng chặt, tuyết đọng trước cửa dày đến mấy lớp cũng không một ai quét dọn. Xem ra, người vẫn chưa trở về.
Hắn cúi đầu nhìn đứa bé đang nắm lấy gối mình, đối diện đôi mắt đen trong veo kia, nghiêm túc nói:
“Ta không thể mang ngươi đi được. Ta… ta cũng không có nhà. Theo ta, e là cũng chỉ thêm khổ. Trong thôn còn có nhiều người tốt, chi bằng… tự mình thử tìm xem?”
Đứa bé hít hít mũi, ngoan ngoãn gật đầu.
Ngụy Thừa buông tay đứa nhỏ, lòng bàn tay cậu lạnh buốt như băng. Cõng chiếc sọt, cậu bước lên phía trước, đi được một đoạn xa cũng không nghe thấy tiếng động phía sau.
Chân bỗng như rót đầy bùn chì, nặng nề bước chẳng nổi. Ngụy Thừa ngoái đầu nhìn lại — đứa bé ấy vẫn còn đứng tại chỗ, khuôn mặt đỏ ửng vì lạnh đã loang đầy nước mắt, tay nhỏ lấm lem cứ thế mà vụng về lau mãi.
Ngụy Thừa hít một hơi thật sâu, hốc mắt chợt đỏ hoe. Không hiểu sao, trong đầu chợt hiện ra hình ảnh năm xưa — lúc nương tái giá, hắn cũng từng đứng như vậy nhìn theo bóng lưng người rời đi.
Chỉ khác là khi ấy, nương chưa từng quay đầu lại. Nếu năm đó bà có ngoái đầu một lần, thấy hắn khóc thành bộ dạng kia… có khi nào sẽ đổi ý?
… Quên đi.
“Đừng khóc, ai…”
Ngụy Thừa lại quay lại, đứng trước mặt đứa nhỏ, thở dài như một ông cụ non:
“Ta chỉ có thể đưa ngươi về nhà ta tạm lánh một chút. Đợi trường bá bá trở lại rồi, ta sẽ giao ngươi cho ông ấy, nhờ ông ấy tìm cho ngươi một nhà tử tế.”
Quán Quán khụt khịt mũi, ra sức gật đầu, đôi mắt đỏ hoe vì chính mình vừa lau nước mắt đến đỏ ửng.
Ca ca này là người tốt. Người rất ấm, còn đưa cho nó áo giày mặc chống lạnh. Quán Quán nghe hiểu được lời hắn nói, nhưng chỉ cần hắn vừa xoay người rời đi, trong lòng liền khổ sở đến tận cùng.
Ngụy Thừa đưa tay xoa đầu nó:
“Ngươi tên gì? Có tên không?”
Quán Quán ngẩn người một lát, rồi đưa chiếc hũ đất nhỏ trong tay ra trước mặt ca ca, giọng nói rất chậm, rất vất vả, nhỏ như muỗi kêu, nãi thanh nãi khí đáp:
“Vại… vại.”
“Ngươi tên là Quán Quán? A, đợi đã… ngươi không phải là người câm? Chỉ là không nói được rõ ràng thôi sao?”
Ngụy Thừa hơi kinh ngạc, trong lòng mừng rỡ.
May mà đứa nhỏ này không câm. Nếu là người câm thật thì việc tìm nhà nhận nuôi cũng càng thêm gian nan. Hắn lại liếc nhìn giữa hai hàng lông mày của đứa nhỏ, không thấy nốt ruồi đỏ đặc trưng của ca nhi, xem ra đúng là một tiểu hán tử.
Ngụy Thừa chỉ vào chính mình:
“Ca ca?”
Đôi mắt đỏ hoe của Quán Quán mở to, môi hé ra, chậm rãi kêu lên như mèo con:
“Ca ca…”
“Ta từng nghe người ta nói nương ta cũng từng sinh đệ đệ, chắc hẳn cũng ngoan ngoãn, đáng yêu như Quán Quán vậy.”
Ngụy Thừa ho khan hai tiếng cười cười, rồi lại thở dài, tâm trạng chẳng biết từ khi nào đã lặng lẽ quyết định đem Quán Quán về Ngụy gia.
Ánh mắt hắn dừng lại trên người Quán Quán và chiếc sọt. Đứa nhỏ này quá bé, đặt vào trong sọt lại vừa vặn y như đúc.
…
Lúc Ngụy Thừa về đến nhà, sân viện Ngụy gia vắng tanh. Hắn vội vàng trở về phòng chất củi, còn chưa kịp đặt Quán Quán xuống thì đã nghe tiếng đập cửa thình thịch bên ngoài.
“Ngụy Thừa! Ngụy Thừa! Ngươi lén lút mò về làm gì đó! Mau mở cửa! Đây là nhà ta, ngươi còn không mau mở ra! Ngươi lại dám không nghe lời, coi chừng ta nhốt ngươi trong nhà xí!”
“Hahaha! Đồ con hoang thì phải ở trong nhà xí!”
Ngụy Thừa cắn răng, nắm chặt hai tay.
Nếu không phải còn đang giấu Quán Quán trong phòng, hắn sớm đã đấm cho hai tên du côn kia rụng răng đầy đất.
Toàn bộ Ngụy gia này, nói cho cùng cũng là do một tay Ngụy Thừa lo liệu. Vậy mà Ngụy Điền với Ngụy Đức lại không biết xấu hổ mở miệng mắng chửi?
Ngụy Thừa vốn là con trưởng của Ngụy Đại Niên. Năm xưa Ngụy Đại Niên vốn là thợ săn, nhờ có bản lĩnh mà một tay nuôi dưỡng người cha liệt giường đến lúc trọn thọ quy thiên, lại gánh cả đàn con em cùng cha khác mẹ, dựng nhà cày ruộng, dựng vợ gả chồng cho hai em trai. Người một nhà đều nhờ cậy ông mà sống qua ngày.
Chỉ tiếc ông từng bị thương khi đi săn lúc trẻ, mặt có tật, mãi đến năm hai mươi tư mới lấy được vợ.
Ai ngờ bà vợ ấy — bà Phương, tính nết vô lương. Ngụy Đại Niên lần cuối vào rừng bị gấu tấn công, trọng thương dưỡng chưa đầy tháng thì mất, bà ta liền muốn chia gia sản, không để lại gì cho mẹ con Ngụy Thừa.
Nhưng bà ta không ngờ được, mẹ Ngụy Thừa là Tần thị chẳng phải dạng dễ bắt nạt. Vừa phân gia xong đã lén bán bốn mẫu ruộng còn sót lại của chồng, ôm theo bốn mươi lượng bạc và đứa con bốn tuổi về quê mẹ, thủ hiếu ba năm rồi tái giá với một phú hộ trong thôn bên. Sau cùng, khi Ngụy Thừa lên bảy, bà ném hắn trở lại thôn Mậu Khê.
Đến nay, Ngụy Thừa vẫn nhớ rõ lời của cậu mợ năm ấy khi đưa hắn trả lại Ngụy gia:
“Đây là giống nhà ngươi, Ngụy gia cũng không cần, Tần gia ta càng không cần.”
Hai nhà to tiếng, náo loạn đến mức trưởng thôn phải ra mặt dàn xếp. Trưởng thôn là người hiểu chuyện, vài lời đã khiến người Ngụy gia bẽ mặt không nói được, Tần gia thì ngẩng cao đầu bỏ đi. Cuối cùng, chỉ có thân hình gầy gò như que củi của Ngụy Thừa được giữ lại.
Thật ra Ngụy Thừa cũng không để tâm. Dù ở bên ngoại hay ở Ngụy gia, hắn đều chẳng ai yêu thương, đến ăn cũng không đủ no.
Hai nhà đều ghét hắn, đều mắng hắn “lòng lang dạ sói”, vì ai đánh hắn hắn liền đánh trả, đánh không lại cũng tuyệt không khóc, tuyệt không van xin; cho ăn thì ăn, không cho thì tự tìm; bắt làm việc thì làm, nhưng nếu có chút lợi lộc, hắn đều sẽ tìm cách trộm lấy. Nếu không tranh thủ chút ít, sợ rằng hắn đã sớm chết đói.
Căn phòng chứa củi này vốn là phòng của nhà ba người Ngụy Thừa, chỉ là mấy năm nay bị biến thành nơi chất củi lửa và đồ linh tinh. Trong đó còn sót lại một tấm ván giường, coi như là chỗ ngủ của hắn.
Cậu giấu Quán Quán vào một khe nhỏ giữa đống củi cao ngất và vách tường, sau đó mới mở cửa. Cửa vừa hé, liền thấy hai đứa một béo một lùn — Ngụy Điền và Ngụy Đức.
Ngụy Điền là con trai thứ của nhị thúc, chín tuổi, lớn hơn Ngụy Thừa một tuổi. Nhờ có ca ca là Ngụy Chí biết đọc sách, hắn thường ỷ thế bắt nạt người trong nhà và cả thôn.
Ngụy Đức là con trai duy nhất của tam thúc, được bà nội Phương và cô Ngụy Lâm Lang nuông chiều từ bé. Mới tám tuổi mà đã trắng trẻo béo múp, mỡ che cả đôi mắt.
Ngụy Thừa lạnh lùng hỏi:
“Chuyện gì?”
Ngụy Đức lanh lẹ chui vào phòng, chỉ vào chiếc sọt trống trơn trên đất:
“Ngươi lúc nãy về ta còn thấy trong này nặng lắm, sao giờ chẳng còn gì?”
Ngụy Điền quát:
“Nói mau! Có phải giấu thứ gì quý không?”
Hai đứa định xộc vào lục lọi. Ngụy Thừa biết không ổn, vội nói:
“Ta có cái gì quý? Chỉ là nhặt ít củi khô thôi. Nhưng mà hôm qua ta thấy tiểu cô ra khỏi phòng nãi xong lại đi sang phòng tam thẩm, sau đó còn ghé qua thư phòng đại ca, tay còn cầm giấy dầu, thơm lắm… không biết là vịt nướng hay gà nướng…”
“Ngốc! Là đùi gà nướng! Béo ngậy thơm lắm ta ăn hết luôn!”
Ngụy Đức buột miệng thốt lên, lời vừa ra khỏi miệng liền vội đưa tay che lại. Ngụy Điền hai mắt đỏ lựng, bỗng dưng đá tung cửa căn phòng chứa củi, ngẩng đầu khóc òa:
— Nãi! Các người bất công quá!
Ngụy Đức cuống quýt chạy theo ra ngoài.
Ngụy Thừa thở dài một hơi. Trong nhà này, người bất công nhất chính là bà Phương — vừa yêu chiều đứa biết đọc sách là Ngụy Chí, vừa coi Ngụy Lâm Lang như tim gan trong dạ. Lời lẽ thì ngọt ngào dành cho Ngụy Đức và tiểu nhi tử Ngụy Tam, còn đứa như Ngụy Điền — vốn lười biếng lại hay ăn chơi — thì chẳng ưa chẳng thích.
Thế nhưng Ngụy Điền dù sao cũng có cha có mẹ, có huynh trưởng, còn hắn, Ngụy Thừa, thì sao? Không thể so được.
Hắn bèn ôm đứa nhỏ tên Quán Quán ra khỏi gian phòng tàng trữ củi lửa. Tiểu hài nhi ngoan ngoãn an phận, chẳng hé răng, cũng chẳng giãy dụa.
May là giờ đang là mùa đông, nhà nào cũng chất đầy củi lửa, nếu là mùa hè, thật không biết phải giấu Quán Quán nơi đâu.
Trong căn phòng củi vang lên một tiếng rì rầm rất nhỏ, kéo dài như tiếng than thở trong gió. Ngụy Thừa cúi đầu nhìn Quán Quán, thấy khuôn mặt nhỏ đỏ ửng, bàn tay bé xíu xoa bụng, khẽ nói:
— Nó kêu... không phải Quán Quán...
Ngụy Thừa bật ho khẽ hai tiếng, cười bảo:
— Ngươi đói bụng rồi. Ca ca sẽ nướng đậu đất cho ngươi ăn.
Nhắc đến đậu đất, lại nhớ ngày hôm ấy tuyết rơi dữ dội, nếu không vì bị sai ra ngoài trong thời tiết giá rét ấy, Ngụy Thừa cũng không đến nỗi lâm bệnh nặng như giờ.
Hôm đó, chỉ vì Ngụy Lâm Lang đột nhiên muốn ăn bánh tròn đậu đất, bà Phương — tính tình tham tiện — biết nhà họ còn trữ mấy sọt đậu, vậy mà vẫn giục hắn ra ngoài đào đậu về nấu, cứ như đòi mạng. Khu ruộng của nhà phú hộ trong thôn đất rộng lương nhiều, thuê đầy đầy tớ tốt xấu lẫn lộn, vào đông thường có người nghèo tới bới nhặt, bọn họ cũng mắt nhắm mắt mở cho qua.
Nói ra thì đào đậu cũng chẳng nguy hiểm gì, nhưng Ngụy Thừa thân chẳng có nổi một chiếc áo bông tử tế, giày thì thủng gót rách đế, gió vừa thổi qua cả người liền run lẩy bẩy. Một ngày gió buốt trở về, hắn phát bệnh. May thay trước đó còn lén cất chút đậu đất và khoai lang, miễn cưỡng sống qua ngày. Vì mùa đông chẳng có việc gì để làm, người nhà họ Ngụy cũng chẳng cho hắn cơm ăn.
Hắn lấy ra ấm thuốc cũ nát, là ấm của cha hắn dùng năm xưa, chắc người trong nhà chê xui xẻo nên vứt xó, chẳng thèm ngó tới. Hắn dùng ấm đó nấu thuốc, rồi xâu hai hạt đậu đất đặt bên bếp lửa, chậm rãi nướng lên.
Không sợ mùi thuốc hay mùi nướng bay ra bị ai phát hiện, vì căn phòng cũ kỹ này tách biệt mấy gian khác, ít có người lui tới. Chỉ khi củi trước nhà không đủ dùng, hoặc mùa hè cần lấy cuốc xẻng mới có người bước vào.
Quán Quán rụt bàn tay nhỏ, ngồi xổm trước đống lửa, đôi mắt tròn xoe nhìn chằm chằm vào động tác của Ngụy Thừa, nước miếng chực trào, ngây thơ hỏi:
— Hương quá, ca ca… đùi gà?
Ngụy Thừa sững người, cố nhịn ho bật cười:
— Không phải đùi gà đâu, là đậu đất, cũng ngon lắm.
Nhắc đến đùi gà, hắn cũng khẽ nuốt nước bọt, trầm ngâm nhớ lại:
— Đúng là đùi gà ngon thật. Hồi ta còn nhỏ, hay theo cha vào núi, bắt được gà rừng là cha liền nướng cho ta ăn. Nhóm lửa nhỏ, nướng đùi gà tới lớp da vàng giòn, bên trong mềm thơm, còn rắc thêm chút muối trắng…
Quán Quán liếm môi, đưa tay che miệng hắn lại, giọng non nớt:
— Đừng nói nữa, ca ca.
Ngụy Thừa cười:
— Được rồi, không nói nữa. Đợi ca ca lên núi, bắt con thỏ về cho Quán Quán ăn!
Khi đậu đã chín, hai tiểu hài tử liền ăn lấy ăn để. Quán Quán ăn say sưa, đến cả lớp vỏ cháy cũng không chừa, mặt mũi lấm lem, như thể chưa từng được ăn món ngon như thế bao giờ.
— Ca ca.
Quán Quán liếm môi, ngẩng đầu nói:
— Quán Quán không cần đùi gà, cũng không cần thỏ… Quán Quán, về sau, muốn ngày nào cũng ăn đậu đậu…
Ngụy Thừa bật cười, cảm thấy đứa nhỏ này thật đáng yêu, hơn xa cái vẻ được nâng như ngọc của Ngụy Đức. Hắn đưa tay xoa mái đầu lấm lem của đứa nhỏ.
— Được, ca ca sẽ nướng cho ngươi.
Hai đứa trẻ ngồi quây quần bên đống lửa nhỏ. Ngụy Thừa nghĩ đến Ngụy Đức, lại lo lắng: nếu sau này quan lý chính tìm được nhà mới cho Quán Quán, lỡ nhà ấy cũng có trẻ con, bọn chúng có giống Ngụy Đức, Ngụy Điền, bắt nạt Quán Quán hay không?
Nhưng rồi lại thở dài — hắn còn có thể làm gì được?
Hắn cũng là thân phận ở nhờ, xuân thu thì còn có thể lên núi đào củ kiếm ăn, tích góp vài đồng tiền lẻ đổi ít lương thực, giờ đã sắp cạn rồi.
Trong lòng nghèn nghẹn, hắn cúi đầu bảo:
— Quán Quán, ngươi nghe ca ca nói.
— Nếu sau này ngươi có thân nhân, nhưng họ lại đánh ngươi, mắng ngươi… Ngươi cứ đến tìm ca ca.
Thấy ánh mắt long lanh của đứa nhỏ đầy ngơ ngác, Ngụy Thừa dịu giọng nói tiếp:
— Ngươi xem, ca ca nướng đậu cho Quán Quán, đổi giày cho Quán Quán. Ca ca không đánh Quán Quán, cũng không bắt nạt Quán Quán.
Quán Quán hiểu được, gật đầu như gà mổ thóc.
— Nếu có người đánh ngươi, mắng ngươi, không cho ngươi cơm ăn… dù có cơm cũng chẳng tốt lành gì… ngươi đừng sợ, cứ đến tìm ca ca. Nhớ chưa?
— Nhớ rồi.
Giọng Quán Quán non nớt:
— Ca ca tốt, ai đánh Quán Quán là người xấu.
Ngụy Thừa gãi đầu, ngượng ngùng:
— Ừm… cũng coi như là vậy.
Hắn là người tốt sao? Hắn còn chẳng giúp được gì cho Quán Quán…
Một lúc sau, ăn uống no đủ, Quán Quán bắt đầu ngáp dài, hàng mi dài khẽ run, tay nhỏ vẫn ôm chặt lấy cái chum nhỏ bên mình. Ngụy Thừa định dời cái chum sang bên, nhưng đứa nhỏ ôm chặt quá, chẳng động đậy được.
Hắn đành để mặc, rồi lại ngồi xuống, chậm rãi sắc thuốc, trong lòng nghĩ: đợi Quán Quán tỉnh, phải cho uống một chén.
Thế rồi hai ngày yên ắng trôi qua. Thuốc của hắn cũng sắp cạn, hắn tính sáng mai sẽ tới nhà lý chính xem thử.
Đêm ấy, cánh cổng tre cũ kỹ đột nhiên bị đá tung từ bên ngoài…
---