Vì vậy, Hà Nhất Niên và Hà nãi nãi đều hết lời khen ngợi hắn.
Lúa sớm có giá ba văn tiền một cân, tám mẫu ruộng nước thu hoạch được 1760 cân, bán hết có thể thu về 5280 văn tiền.
Lúa mùa vì có thời gian gieo trồng dài hơn, được hấp thụ đầy đủ ánh sáng mặt trời nên hạt chắc hơn, chất lượng tốt hơn, giá dao động từ 3 văn rưỡi đến 4 văn một cân. Bán toàn bộ có thể thu về khoảng 6160 văn tiền.
Còn bốn mẫu ruộng cạn, nhà họ Hà thường trồng khoai tây, khoai lang hoặc bắp, mỗi mẫu thu hoạch khoảng 500 cân. Giá trung bình khoảng một văn một cân, nếu bán hết có thể thu về khoảng 2000 văn tiền.
Tính tổng lại, thu nhập cả năm của nhà họ Hà là 13.440 văn, tức khoảng hơn 13 lượng bạc.
Tuy nhiên, đó chỉ là trong điều kiện lý tưởng. Sau khi trừ đi chi phí mua hạt giống hết 3 lượng bạc, họ cũng cần để dành khoảng 200 cân lúa nước cho gia đình ăn, nên thực tế chỉ còn lại khoảng 10 lượng bạc.
Hà Tự Phi nhớ lại trong tiểu thuyết "Hồng Lâu Mộng" có viết rằng 24 lượng bạc có thể giúp hai gia đình nghèo sống đủ một năm. Điều đó có nghĩa là một hộ gia đình bình thường có thể duy trì sinh hoạt với khoảng 12 lượng bạc mỗi năm.
Nhà họ Hà sống khá giản dị, quần áo hầu hết do Hà nãi nãi tự dệt bằng khung cửi của thôn, chỉ cần trả tiền thuê khung. Nhưng vải bông tốt hơn thì phải mua, một cây vải có giá từ một đến hai lượng bạc.
Vậy nên, sau khi trừ đi các chi tiêu cần thiết, Hà Tự Phi ước tính rằng mỗi năm gia đình mình có thể để dành khoảng 5 lượng bạc. Con số này chưa bao gồm chi phí xây nhà ban đầu. Hắn đoán rằng, sau khi xây nhà hết 10 lượng bạc, suốt bốn năm qua gia đình hắn mới chỉ tích góp được khoảng 10 lượng bạc mà thôi.
Vậy mà giờ đây, chỉ riêng số tiền gia gia mua giấy bút cho hắn và nãi nãi mua vải đã tốn hết 5 lượng bạc 500 văn.
Số tiền này thậm chí còn nhiều hơn cả số bạc mà họ có thể tiết kiệm được trong một năm.
Trước đây, Hà Tự Phi chưa từng tính toán chi tiết thu nhập và chi tiêu của gia đình. Hắn chỉ nghĩ đơn giản rằng có ruộng đất để trồng trọt, có cái ăn là đủ. Nhưng giờ y mới nhận ra rằng ông bà đã bảo bọc mình rất tốt, chỉ giao cho hắn việc gieo hạt và làm cỏ, còn những công việc nặng nhọc nhất như cày bừa đều do ông bà đảm nhận.
Nghĩ đến đây, y không dám tùy ý xem nhẹ chuyến đi lên huyện lần này nữa.
Dù thế nào đi nữa, hắn cũng phải học được chút bản lĩnh mang về.
Sau khi trở về Thượng Hà thôn, Hà nãi nãi bỏ hết công việc đồng áng để tập trung may áo quần cho Hà Tự Phi.
Hà Nhất Niên ngồi bên rít hai hơi thuốc lào rồi nói: “May rộng một chút, Tự Phi tuổi này lớn nhanh lắm, mười ngày nửa tháng đã cao thêm một chút. May rộng thì có thể mặc lâu hơn.”
Hà nãi nãi thấy ông không giúp mà còn ngồi đó chỉ đạo thì tức giận nói: “Quần áo trong nhà từ lớn tới bé đều là tôi may, chẳng lẽ tôi không biết điều đơn giản này sao?”
Hà Nhất Niên không chịu thua, tranh luận lại: “Cái Bà này, đừng có lắm lời, mau may cho xong đi.”
Hà Tự Phi chưa bao giờ thua trong những trận đấu võ mồm trong nhà. Khi mới xuyên đến đây, hắn từng lo lắng ông bà sẽ nổi giận, nhưng sau bốn năm sống chung, hắn đã sớm hiểu rằng những cuộc tranh luận đó chỉ là "niềm vui nhỏ" giữa ông bà mà thôi.
Vì vậy, sau khi đo đạc xong, hắn lập tức trở về phòng riêng, không tiếp tục "nghe lén" nữa.
Số tiền 860 văn kiếm được từ việc chạm khắc gỗ, ngay khi nhận được, Hà Tự Phi đã đưa hết cho ông bà, trên người không giữ lại đồng nào. Nhưng hắn không chỉ đơn thuần là kiếm tiền xong để đó, mà sắp tới còn phải lên huyện, có khi ở đó vài tháng. Thế nên, hắn cần chuẩn bị đầy đủ những công cụ mình hay dùng.
Công cụ cũng không nhiều, chỉ có một con dao nhỏ cũ kỹ đã qua năm năm sử dụng, là thứ hắn nhặt được trong bếp khi vừa tỉnh lại năm tám tuổi. Ngoài ra còn có ba cái giũa lớn, vừa, nhỏ khác nhau, phần đuôi được bọc vải cẩn thận, trên đó còn quấn sợi chỉ đỏ. Đây là bộ giũa mà ông đã đặc biệt mài giũa cho hắn vào năm trước. Những món này đều là dụng cụ khắc gỗ của hắn. Ngoài ra, hắn còn có hai khúc gỗ nhặt được và mấy viên đá tròn nhẵn.
Những viên đá này hắn không định mang lên huyện, vì dù có mang theo cũng chẳng làm gì được, thế nên tốt nhất là cứ để lại nhà.
Nhưng khúc gỗ và giũa thì hắn phải đem theo. Nếu có thể chạm khắc những mẫu mã thịnh hành trên thị trường, biết đâu lại kiếm được chút tiền mua thịt ăn?
Hà Tự Phi không phải là một thiếu niên mười hai tuổi bình thường. Với kinh nghiệm từ kiếp trước, hắn biết rõ làm thư đồng không phải chuyện dễ dàng. Dù Cao Thành An là biểu ca của hắn thì sao chứ? Hắn đâu có lớn lên cùng y, làm gì có tình huynh đệ? Trước đây, hắn thậm chí còn chưa từng gặp mặt Cao Thành An.
Cho nên, muốn sống thoải mái trên huyện, hắn phải tự nghĩ cách.
Bốn năm sống yên bình ở thôn Thượng Hà không hề làm mất đi tính cách kiên cường gần như cố chấp của Hà Tự Phi. Sự tàn nhẫn, toan tính đã khắc sâu vào tận xương cốt hắn, không thể nào phai mờ. Chỉ là, hắn che giấu những điều đó quá hoàn hảo mà thôi. Nếu không có chuyến đi huyện thành lần này, có lẽ hắn sẽ cam chịu cuộc sống đạm bạc, ở lại thôn Thượng Hà để tận hiếu với hai ông bà đến cuối đời.
Kiếp này, thân thể hắn vẫn còn khỏe mạnh. Nếu không có gì bất ngờ, hắn hẳn sẽ sống lâu hơn ông bà.
Không hiểu sao, Hà Tự Phi chợt nhớ đến lời của vị lão tiên sinh từng dạy thư pháp cho hắn:
"Đôi mắt của ngươi hoàn toàn không giống một thiếu niên mười mấy tuổi. Thân thể tàn tật nhưng trong xương cốt lại vô cùng hiếu chiến. Ta từng nghe nhiều lời đồn về ngươi—nói rằng ngươi ra tay tàn nhẫn, chẳng bận tâm đến thế gian hay phải trái đúng sai. Nhưng ta vẫn nguyện thu nhận ngươi làm đồ đệ. Không phải vì muốn truyền thừa thư pháp, hội họa hay Nho học, mà vì dù có mang tính cách lạnh lùng như thế, ngươi vẫn vô cùng kính trọng mẫu thân mình. Dù ở thời khắc nguy nan nhất, ngươi chưa bao giờ bỏ rơi bà để chạy trốn một mình. Ta khâm phục điều đó."
Khi ấy, Hà Tự Phi cũng tầm tuổi bây giờ, khoảng mười ba tuổi. Đôi mắt hắn khi đó vẫn còn đầy cảnh giác, chưa thể hiểu hết lời của lão tiên sinh, càng không thể thấu đáo được ý nghĩa của hai chữ "sư phụ". Hắn chỉ biết rằng vị tiên sinh này sống khá giả, thường có người mang thức ăn và thuốc bổ đến cho ông. Hắn nghĩ, nếu theo ông ta, có lẽ sẽ mở rộng được mối quan hệ.
Bởi vậy, dù lão tiên sinh có nhận hắn làm đệ tử, hắn vẫn chỉ gọi một tiếng "tiên sinh" mà thôi.